Di tích lịch sử Đền - chùa Diêm Điền xã Bình Hòa huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
Lượt xem: 116

Đền - chùa Diêm Điền xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy, là nơi thờ thành hoàng làng và các vị tổ lập làng. Vì nằm ven trục  đường chính liên xã của huyện Giao Thủy nên rất thuận lợi trong việc đưa đón khách thăm quan và phát huy giá trị của di tích.

Đền Diêm Điền thờ thành hoàng và các vị tổ thành lập làng.

Vào thời vua Lê Kính Tông (1600-1619) có 10 gia đình thuộc các dòng họ Lê, Đặng, Phạm, Đoàn, Hoàng, Trần, Vũ, Bùi, Hà, Nguyễn cùng kết nghĩa bạn bè rời quê hương Thiên Bản- Vụ Bản về trang Hà Cát huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường khai hoang lấn biển. Lúc đầu họ dựng lều trên cồn cát để ở, sinh sống bằng nghề làm muối, nên về sau đặt là “Diêm Điền” nghĩa là cánh đồng muối. Cùng với việc phát triển của làng xã, người dân Diêm Điền đã biết cải tạo, dẫn nước ngọt về thau chua, rửa mặn ruộng đồng và trồng được các loại lúa sung, lúa giờ, lúa hoa dâu, là những loại lúa thân cao, đầy nhánh, có sức chịu đựng chua mặn, ngập úng. Chính vì điều kiện làm ăn ngày càng thuận lợi, đất lành chim đậu, nhân dân các nơi xin về đây nhập cư càng nhiều. Đến năm 1614 quan đại thần Lưu Đình Chất làm dinh điền sứ tại vùng biển Giao Thủy, xuất tiền đắp đê, lập ra 12 xã, trong đó có xã Diêm Điền.

Khi ấy nhân dân trong xã đã dựng chùa thờ Phật và lập đền, rước chân nhang thành hoàng ở quê gốc của ông tổ là Lê Đình Hương - một tướng tiên phong có công dẹp giặc Thục dưới thời Hùng Duệ Vương về thờ làm thành hoàng làng mới Diêm Điền. Ngoài ra để nhớ ơn 10 vị tổ các dòng họ, nhân dân địa phương cũng đặt thần vị phối thờ ở trong đền.

Niên hiệu Đức Nguyên năm thứ 2 (1675), 10 ông tổ được phong tước bá và ban mỹ tự để thờ là: “Phụng thiên khai cơ chiêu dân lập ấp bảo thành trợ thuận hoằng nhân giáo nghĩa” có nghĩa là: Vâng mệnh trời khởi xướng sự việc chiêu dân lập làng, giữ gìn công việc trọn vẹn theo ý, triều đình khuyếch trương việc nhân nghĩa dạy dỗ nhân dân.

anh tin bai
Đền- chùa Diêm Điền xã Bình Hòa, huyện Giao Thủy, Nam Định

Hiện nay còn đôi câu đối nhấn tại hiên tiền đường ca ngợi công lao của các vị tổ:

“Hoành hải hữu đê lưu sứ thủy

Diêm Điền lập ấp thập công tiên”

(Đê ngang được đắp do quan Dinh Điền sứ

Lập ấp Diêm Điền nhờ công 10 vị tổ).

Đền Diêm Điền ban đầu làm bằng tranh tre nứa lá vì dân làng còn gặp nhiều khó khăn. Đền được xây dựng lại và mở rộng ra vào đầu thế kỷ 19, năm Tự Đức thứ 36 (1884).

Ngôi đền được xây theo kiểu chữ “Đinh”, tiền đường 5 gian và hậu cung 4 gian, làm theo kiểu chồng diêm 2 lớp mái.

Tòa tiền đường 5 gian, hai gian ngoài cùng được xây vít có tạo cửa sổ để thông thoáng, ba gian giữa tạo cửa ra vào, cánh cửa gỗ kiểu thượng song hạ bàn. Hai đầu hồi xây bít đốc, mái lợp ngói nam. Tiền đường gồm có 4 bộ vì, gánh đỡ mỗi bộ vì là bốn cây cột gỗ lim đường kính 0.3 m, đặt trên chân tảng đá xanh. Các vì nóc được làm theo kiểu ván mê, chạm khắc hổ phù, rồng bay trong mây. Vì nách trạm tứ linh, trên các câu đầu, các bẩy ngoài đường chỉ đơn, chỉ kép còn nhấn tỉa những cành lá lật mềm mại, khiến cho từng bộ phận tách riêng ra cũng không đơn điệu và khi hòa nhập trong một tổng thể nó cũng lại càng hỗ trợ nâng cao giá trị cho cả công trình.

Bốn gian hậu cung được nối với tiền đường bằng hệ thống cửa bức bàn, bộ vì được làm theo kiểu ván mê. Ở cung cấm đền Diêm Điền các mảng trạm khắc kỹ thuật tinh xảo với đề tài lưỡng long chầu nguyệt, mai hóa…đặc biệt là hình ảnh tứ linh sinh động ở ván mê: rồng bay lượn trong mây, phượng đang tung cánh, rùa ly vừa chạy, vừa ngoái cổ nhìn lại nhau.

Chùa Diêm Điền được nhân dân xây dựng sau khi dựng đền. Chùa được làm theo kiểu chữ “đinh”, bái đường 5 gian, thượng điện 3 gian. Hệ thống cột và tường bao quanh được xây bằng gạch, mái lợp ngói nam.

Bên cạnh chùa về phía Tây là phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh. Công trình xây dựng theo kiểu chữ “đinh” gồm tiền đường 3 gian và chính tẩm 3 gian hẹp. Tiền đường thiết kế theo kiểu thượng mê cốn hạ bẩy với bộ khung bằng gỗ lim, mái lợp ngói nam.

Nhà tổ nằm lui về phía sau chùa, gồm 5 gian thiết kế theo kiểu chồng diêm với các bờ bảng, mái cong, các con kìm, kẻ góc đầu đao được gia công khá công phu, nghệ thuật.

Di tích đền - chùa Diêm Điền là nơi còn liên quan đến các phong trào cách mạng của địa phương, đặc biệt trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, để bảo vệ chính quyền vừa giành được, tại Diêm Điền đã xây dựng một tiểu đội tự vệ, tối tối tại sân đền và chùa đội tự vệ luyện tập quân sự, võ nghệ. Năm 1947, tàu chiến Pháp vào cửa Ba Lạt theo sông Hồng tiến lên đánh thành phố Nam Định. Đền Diêm Điền là cơ sở chỉ huy pháo đài Cồn Nhất để đánh tàu chiến trên sông Hồng, đây cũng là cơ sở đầu tiên đón cán bộ từ tỉnh Thái Bình về xây dựng cơ sở.

Cuối năm 1949, cán bộ từ Thái Bình tiếp tục về xây dựng cơ sở tại địa phương, đền và chùa Diêm Điền là trạm giao liên đầu tiên để đi các xã, là trạm giao liên giữa Giao Thủy và Thái Bình. Tại chùa có hầm bí mật cất giữ tài liệu, che chở bảo vệ cán bộ hoạt động lâu dài.

Chùa còn là cơ sở tổ chức các hội nghị lớn của huyện, các lớp huấn luyện, các lớp học ngắn ngày của các ngành trong suốt thời gian từ năm 1946 đến năm 1949. Tháng 12 năm 1952, giặc Pháp mở trận càn quét vào huyện Xuân Trường, Giao Thủy hòng giành lại thế chủ động. Tại chùa Diêm Điền du kích phối hợp với đại đội 96 của huyện chặn đánh địch gây cho chúng nhiều thiệt hại lớn.

Hàng năm, tại đền và chùa Diêm Điền có nhiều ngày lễ, ngày giỗ liên quan đến di tích tiêu biểu là ngày 16/3 (âm lịch) là ngày kỉ niệm các ông tổ lần đầu tiên đặt chân đến mảnh đất để bắt đầu công cuộc khai hoang lấn biển.

Từ những giá trị về lịch sử, văn hóa trên đây, năm 1995 đền - chùa Diêm Điền đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.


image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement

 

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1